Kể năm hơn bốn ngàn năm
Tổ tiên rực rở anh em thuận hoà
Hồng Bàng là tổ nước ta
Nước ta lúc ấy hiệu là Văn Lang
Hồ Chí Minh
Ngày đăng: 20/11/2015 00:00:00
Cải cách diễn ra trong bối cảnh lịch sử nửa đầu thế kỷ XVIII, xã hội Đại Việt đang vận hành theo xu thế chung của thời đại: đẩy mạnh quá trình tư hữu hóa ruộng đất, tăng cường kinh tế hàng hóa, tiền tệ, phát triển công (chủ yếu là thủ công nghiệp), thương (kể cả nội ngoại thương) đưa đất nước tiến lên. Nhưng khó khăn là rất lớn, vì sự trì trệ bảo thủ của nền tảng kinh tế phong kiến phương Đông Nho giáo và cuộc khủng hoảng toàn diện đã diễn ra từ cuối thế kỷ XVII sau hơn 100 năm nội chiến (1527-1672).
Trịnh Cương kế ngôi chúa năm 1709 khi đất nước vừa chấm dứt thời kỳ nội chiến kéo dài hơn 100 năm, nhưng hậu quả chiến tranh để lại vô cùng nặng nề. Nông nghiệp sa sút, đê điều ít tu bổ, thiên tai và sâu bệnh phá hại mùa màng liên tiếp xảy ra, đói khổ triền miên, nông dân phiêu tán.
Trịnh Cương sớm nhận thức ra khâu chủ yếu cần giải quyết là kinh tế tài chính. Tư duy cải cách được bộc lộ trong “Phong niên vịnh” của ông năm 1721: “Rút bớt những sự lộng lẫy, xa hoa. Bỏ hẳn những việc phiền nhiễu, hà khắc. Hiểu rõ đạo lý, răn đừng kiêu căng tự mãn và khuyên nên chuộng điều tiết kiệm. Trước phải xén bớt của những kẻ có nhiều, thêm vào cho những người có ít...” (Ngô, Cao Lãng “Lịch triều tạp kỷ”, tr. 38).
Để đi đến cải cách trước hết phải thực hành "Biến pháp" gồm 10 điều nhằm chỉnh đốn kỷ cương phép nước, tu bổ đê điều, chỉnh đốn lại việc thi cử; việc trị nhậm của các quan chức các tỉnh biên cương; tha các tù tội nhẹ đang bị giam giữ; thuế má không tận thu vì dân thiếu đói; đình hoãn việc bắt phu làm việc; phát chẩn và cấp đỡ cho dân đói kém; định lệ cứ ba năm khảo công một lần để định việc thưởng phạt; khắc phục tình trạng bang giao với Trung Quốc còn phiền hà.
Trong quản lý kinh tế thì thực hành ngay 2 biện pháp lớn:
1. Định lại thể lệ quân cấp công điền: “Người được hưởng phần ruộng, từ quan viên đến người quan, quá, cô, độc và phế tật đều được tùy theo suất số mà liệu lượng cấp cho phần ruộng. Những ruộng ẩn lậu còn ở ngoài sổ điền vẫn được miễn thuế, cũng đem quân cấp cho dân...” (Cương mục, sđd tr. 85-86). Ưu đãi giới viên chức, quan liêu bằng việc tăng thêm phần ruộng cho các quan lại, binh lính và khi có việc “do quan dịch nặng nề bức bách" thì “cho phép bán ruộng công khẩu phần” tức mở rộng diện cho sự tấn công của chế độ sở hữu tư nhân vào ruộng công, tăng cường xu thế tích tụ ruộng đất.
2. Cấm quan viên thiện tiện lập trang trại, khuyến khích dân phiêu tán khẩn hoang. Cụ thể là nghiêm cấm việc lấn chiếm trái phép để thu hồi đất công, phân lại ruộng đó cho dân phiêu tán khẩn hoang nhằm phát triển tư hữu nhỏ của nông dân.
Sau 7 năm thi hành các biện pháp trên mới tiến hành cuộc cải cách tài chính, gồm 10 hạng mục:
1. Xóa bỏ phép binh lệ, làm lại sổ hộ, bỏ tên người đã chết, thêm số người đến tuổi vào sổ hộ để chịu thuế.
2. Định phép chia đều thuế khóa và tạp dịch cho cả dinh và điền.
3. Đánh thuế ruộng tư.
4. Thu thuế khai thác và tiêu thụ đồng, quế, muối.
5. Giảm bớt viên chức để giảm bớt chi lương bổng.
6. Thi hành phép đánh thuế tô (thuế ruộng), dung (thuế thân), điệu (thuế sai dịch).
7. Đặt thêm sở tuần ty ở các trấn để tận thu thuế thương nghiệp.
8. Thu thuế các loại thổ sản khác.
9. Thu thuế đất ở đô thị.
10. Định ra các thể lệ giảm, miễn thuế...
Ngoài cải cách tài chính, Trịnh Cương còn thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ cho cải cách như:
- Định rõ lệnh cấm uống rượu.
- Định phép khảo công để đối với viên quan ở các trấn, ty để thi hành việc giáng truất hay cất nhắc.
- Hạ lệnh cho nhân dân được phép ca tụng hoặc chê bai việc tốt hoặc xấu của quan lại.
- Hạ lệnh giải tán binh quyền vì “các thân thuộc họ Trịnh giữ binh quyền trọng đại quá e sẽ sinh biến”.
Cải cách tài chính của Trịnh Cương đã đem lại một số thành quả là:
- Tạm thời giải quyết được khó khăn về tài chính, ổn định được tình hình, củng cố được kỷ cương, trật tự xã hội sau hơn 100 năm nội chiến.
- Giảm bớt được nạn đói khổ cho nông dân, có năm được mùa.
- Tăng cường thêm một bước phát triển xã hội theo xu thế chung của thời đại là: thúc đẩy quá trình tư hữu hóa ruộng đất, phát triển kinh tế hàng hóa tiền tệ, tăng cường thị trường nội địa để phát triển ngoại thương.
Nhưng mặt khác thì thuế khóa còn quá nặng nề chưa khoan thư được sức dân sau chiến tranh, những khó khăn cơ bản của xã hội chưa được giải quyết. Nguyên nhân chính vẫn là chưa tìm được giải pháp thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng toàn diện mà cải cách tài chính của Trịnh Cương chỉ là một giải pháp tình thế chưa giải quyết được tận gốc của các mâu thuẫn cơ bản của xã hội.
Sự sụp đổ của thành Đa bang không chỉ chôn vùi sự nghiệp của vương triều Hồ, mà còn đánh dấu sự thất bại của phép dùng binh chỉ đơn thuần dựa vào quân đội, vũ khí, thành quách trong điều kiện phải...
Nhiều nhà nghiên cứu khi đánh giá việc đất nước thống nhất là sự xâm lược, thôn tính lãnh thổ, mạnh được yếu thua, cách ứng xử phong kiến mang nặng tính cục bộ mà cho rằng Đại Việt là của người...
Sau cục diện Nam – Bắc triều kết thúc, hình thành cục diện Đàng Ngoài – Đàng Trong. Như vậy, đến giai đoạn này, quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt xuống phía Nam được thực hiện ở Đàng Trong...
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc giỏi thủy chiến. Điều này đã được chứng minh bằng nhiều trận thủy chiến “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử.
Trận đại thủy chiến ở đầm Thị Nại giữa quân Tây Sơn và chúa Nguyễn vào năm 1801 có rất nhiều điểm tương đồng với một trận thủy chiến nổi tiếng khác diễn ra trước đó 16 thế kỷ.
Cải cách hành chính của Minh Mạng diễn ra vào nửa đầu thế kỷ XIX, khi xã hội phong kiến Việt Nam đã lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện.
Dù thời xưa, phận đàn bà “ba chìm bảy nổi” nhưng nhiều người trong số họ vẫn vượt lên cái lẽ “nữ nhi thường tình” để gánh vác quốc gia đại sự.
Theo các sử liệu của cả Việt Nam và Trung Quốc, trong hơn 1000 năm, quân đội của Đại Việt đã hàng chục lần tấn công vào lãnh thổ láng giềng phương Bắc.
Thủy quân dưới thời các chúa Nguyễn (1558 - 1777) đã hoàn toàn làm chủ vùng biển đảo Đàng Trong, đặt nền móng xác lập chủ quyền biển đảo Việt Nam, đặc biệt là chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong suốt hơn một thiên niên kỷ qua, quân và dân Việt Nam đã giành được hàng loạt chiến thắng hết sức lẫy lừng trước những kẻ thù hùng mạnh hơn rất nhiều.